Ẩm thực miền Tây dân dã, mộc mạc như chính con người nơi đây. Nếu khách thập phương muốn tìm thử hương vị đậm chất miền Tây ấy, hãy chọn bánh tầm cay Cà Mau, một món ăn bình dị nhưng sao chứa nhiều điều thú vị lạ kỳ.
Ẩm thực Cà Mau không thiếu món ngon trứ danh nhưng bánh tầm cay vẫn có chỗ đứng nhất định trong lòng thực khách. Sức hấp dẫn của món ăn ấy chính là hương vị bình dị của gạo quê, nét mộc mạc trong cách bày biện món ăn, trong không gian hàng quán đơn sơ mà thực khách không thể tìm được giữa hàng loạt đặc sản hay nhà hàng sang trọng khác. Thế mới nói, về tới Cà Mau mà chưa ăn bánh tầm cay coi như chưa biết hương vị miền Tây.
Món bánh đồng quê đặc trưng ẩm thực Cà Mau thưởng thức vào thời điểm nào cũng ngon
Bánh tầm cay đôi khi cũng được gọi thành bánh tằm cay. Vốn gọi vậy cũng bởi sợi bánh có hình dạng to mập, trắng trẻo như những con tằm, để làm được bánh người thợ phải mất khá nhiều công sức chế biến và “chăm nom”. Họ cần lựa loại gạo ngon, ngâm qua đêm rồi sáng sớm đem xay thành bột, thứ bột mịn này sau khi hòa với nước theo tỉ lệ nhất định sẽ đem hồ trên bếp riu riu lửa. Ngày xưa, khi chưa có máy móc hỗ trợ, những người đàn ông khỏe nhất của gia đình sẽ đảm nhận khâu se sợi. Họ sẽ rắc một lớp bột khô lên chiếc mâm lớn hoặc đồ vật có bề mặt thật phẳng để chống dính, sau đó dùng đôi bàn tay dẻo dai tách hồ thành từ sợi to bằng nửa ngón tay út. Cách làm thủ công mất nhiều thời gian, công sức nhưng bù lại sợi bánh dai ngon hơn.
Sau khâu chế biến sợi bánh, người miền Tây sẽ làm thêm các nguyên liệu khác như xíu mại, thịt nướng, cà ri hay tàu hũ ky để tăng thêm hương vị cho món ăn. Tùy theo góc độ sáng tạo và bàn tay khéo léo của người đầu bếp, mỗi kiểu bánh sẽ cho cảm nhận riêng. Đó cũng là nét đặc trưng ẩm thực Cà Mau trong món ăn.
(Ảnh: Internet)
Bánh tầm cay có nhiều kiểu chế biến, nhiều hương vị nhưng người Cà Mau vẫn thích nhất món ăn mang vị cà ri gà và xíu mại. Họ nói rằng, vị cay nóng của cà ri kết hợp với cảm giác ngọt, béo bùi của xíu mại cùng sợi bánh tằm thơm là sự quyện hòa của ngũ vị giác quan, thể hiện cái hồn của ẩm thực miền Tây. Mỗi vị như vậy lại kèm bí quyết riêng như làm bột cà ri phải có đầy đủ thành phần: đinh hương, đại hồi, bột nghệ, quế chi, hạt mùi khô và ớt khô, tất cả rang thơm sau đó nghiền thật mịn. Có bột đúng tiêu chuẩn mới đem nấu cùng gà làm sạch để có sốt cà ri gà ngon. Riêng xíu mại cần loại thịt lợn ngon có cả nạc lẫn mỡ, gia giảm gia vị vừa tay để khi kết hợp với nước sốt cà ri vẫn thấy được vị của xíu mại. Chế biến xong thành phần, bây giờ người bán sẽ theo ý của thực khách để bày biện món ăn. Tất cả đều khiến mọi người cảm nhận rõ cái dân dã, bình dị của người miền Tây.
Ăn bánh giá Chợ Giồng nhớ công người gìn giữ
Sự đa dạng về vùng miền không chỉ tạo nên bức tranh đầy màu sắc trong phong tục tập quán mà còn ẩn hiện trong cả văn hoá ẩm thực.
Cứ mỗi vùng miền người ta lại bắt gặp những món ăn mang phong vị khác nhau. Với phần lớn diện tích là đồng bằng cùng sự bồi đắp của những dòng chảy lớn nhỏ, miền Tây có hẳn một kho nguyên liệu dân dã để chế biến những món ăn đặc trưng của xứ này. Một trong những đặc sản nhất định phải thử một lần khi đến miền Tây là bánh giá chợ Giồng.
“Một mai em gái theo chồng
Còn đâu bánh giá chợ Giồng mời anh”
Chẳng biết tự bao giờ cứ nhắc đến chợ Giồng là người ta nhất định phải rủ rê nhau ăn cho được bánh giá. Những người lớn bảo rằng cái nôi của bánh giá là ở Chợ Giồng- ngôi chợ lâu đời này thuộc huyện Gò Công Tây – T.iền Giang. Đến cả những người làm bánh lâu đời nhất cũng không biết rõ vì sao loại bánh này lại có tên gọi lạ lùng như vậy. Là bánh giá do trong nguyên liệu làm bánh có giá, hay là bánh vá – mà tiếng miền Tây đọc nghe thành giá – do bánh được đổ lên dụng cụ hình vá rồi đem chiên.
Bánh giá trong tiềm thức người dân miền Tây là những miếng bánh béo ngậy, mùi giá ngọt ngất, miếng gan thơm lừng, con tôm tươi chong…Đến cả mùi bột đ.ánh đều tay đủ lửa cũng làm ta say cả lòng. Thế mới nói đừng nhầm lẫn giữa bánh công và món bánh này. Vốn dĩ để có được một mẻ bánh ngon người ta đã phải mất rất nhiều công cán và tỉ mỉ từ khâu chuẩn bị đến lúc bày bánh ra bàn ăn.
Người con gái Gò Công một đêm trước khi đổ ra những chiếc giá ngon lành đã phải ngâm 3 phần gạo, 1 phần đậu nành rồi mới đem xay thành bột. Bí quyết thành công của vỏ bánh còn nằm ở việc bột được đ.ánh càng lâu thì càng nở và càng xốp. Tuỳ theo giá thành và sở thích giờ đây người ta còn cho thêm trứng gà cho bánh thêm thơm ngon. Bột sau khi trộn vào đủ thứ nguyên liệu theo tỉ lệ vàng của người “cầm vá” được cho vào chảo dầu đang sôi. Lửa chiên bánh cũng phải canh cho liêu riêu và trở mặt bánh liên tục để không bị khét. Những chiếc bánh vàng ươm được vớt ra gác nằm trên những thanh ngang để thấm bớt dầu mỡ.
Công phu, nhọc nhằn là vậy thế nhưng giá mỗi chiếc bánh chẳng đáng là bao. Thầm nghĩ hẳn người làm bánh này là người yêu nghề lắm mới còn đủ sức ôm ấp trong mình những con tôm, những cọng giá, những vá bột mà sống qua ngày.
Nguyên liệu tạo nên bánh giá không phải loại chỉ có theo mùa nên loại bánh này hầu như có quanh năm. Ghé những buổi chợ ở Gò Công Tây hay những chuyến phà chuyên chở khách đều có thể bắt gặp những nia bánh cứ nhắc đến là thấy thương này.
Bánh giá được sử dụng như một món ăn chơi trong những dịp rôm rả bạn bè. Trên những bàn ăn, chiếc bánh thường được chia làm tư, dĩa rau sống kề bên thêm vài cọng bún. Chén nước mắm chua cay được thêm vài cọng củ cải đỏ ngâm chua. Người tinh tế, khéo tay thì cuốn bánh lại rồi chấm cùng nước mắm thưởng thức. Hoặc nếu vội vàng có thể hoà trộn mỗi thứ một ít rồi cừ chan nước mắm vào mà tận hưởng vị mộc mạc của ẩm thực xứ này.
Chiếc bánh giá ngon thật ngon phải dùng tôm đất, gói lá chuối mang về vẫn nóng hôi hổi. Nhưng do giá thành những nguyên liệu này dần ít đi thế nên người làm bánh giá không còn là “đi đâu cũng có thể bắt gặp” nữa. Tuy nhiên, sâu xa trong những ngày xưa, những ký ức của người già vẫn cứ thích kể và tấm tắc khen mãi một chiếc bánh mãi chưa biết gọi tên như thế nào cho đúng.
“Anh ơi về tới Gò Công
Nhớ mua bánh giá chợ Giồng tặng em”
Hi vọng thức bánh mà người ta xem như món quà tặng này sẽ còn được phát huy và giữ gìn như một nét văn hoá của Gò Công xưa.